Quách Như Thảo
Quách Như Thảo
Quách Như Thảo
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Quách Như Thảo

Quách Như Thảo
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia

Go down 
Tác giảThông điệp
q_thao255

q_thao255


Tổng số bài gửi : 52
Join date : 06/05/2014

[Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Empty
Bài gửiTiêu đề: [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia   [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia EmptyMon Jan 26, 2015 10:37 pm

Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Về Đầu Trang Go down
q_thao255

q_thao255


Tổng số bài gửi : 52
Join date : 06/05/2014

[Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia   [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia EmptyMon Jan 26, 2015 10:37 pm

1.

Thân Nhân Trung (1418 – 1499) tên chữ là Hậu Phủ, người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang, ông đỗ tiến sĩ năm 1469, từng là thành viên trong Hội Tao đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập. Là người có tài văn chương nên năm 1484, ông đã được nhà vua tin cậy giao cho soạn thảo Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba. Văn bản này giữ vai trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ ở nhà bia Văn Miếu, Hà Nội. Bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia trích từ bài kí này, trong đó có câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

hien tai la nguyen khi cua quoc gia

Vấn đề tác giả nêu ra trong đoạn trích là khẳng định vai trò, vị trí của các bậc hiền tài đối với đất nước. Đây là một nhận định sáng suốt và đúng đắn, được chiêm nghiệm và rút ra từ thực tế thăng trầm của lịch sử nước ta, chứng tỏ người viết có tầm nhìn xa trông rộng.
Vậy hiền tài là gì và tại sao hiền tài lại là nguyên khí của quốc gia ?

Thế nào là hiền tài? Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng từ thì hiền là ăn ở tốt với mọi người (phải đạo), hết lòng làm trọn bổn phận của mình đối với người khác; tài là khả năng đặc biệt làm một việc nào đó. Hiểu rộng ra theo nghĩa hàm ngôn thì hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo đức, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc.

Thế nào là nguyên khí? Nguyên khí là khí ban đầu tạo ra sự sống của vạn vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước.

Vậy tại sao hiền tài là nguyên khí của quốc gia ?

Hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông núi, của truyền thống dân tộc. Người xưa đã nói: Địa linh sinh nhân kiệt, nên hiền tài là nguyên khí của quốc gia.

Những người được coi là hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hưng vong của một triều đại nói riêng và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Giang Văn Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… ở những thế kỉ trước và nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực tiếp đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kĩ sư Trần Đại Nghĩa, người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ ra bao công sức nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường. Nhà nông học Lương Định Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu cải tạo ra những giống lúa mới có khả năng chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng nguồn lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ… Đó là gương sáng của những bậc hiền tài một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và Tổ quốc.

Như đã nói ở trên, hiền tài có vai trò quan trọng đối với sự hưng vong của đất nước. Nhưng hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài thiên khiếu bẩm sinh, những người tài phải được phát hiện và giáo dục theo một quy củ nghiêm túc để họ nhận thức đúng đắn về mục đích học tập là rèn luyện đạo lí làm người, để bổi dưỡng lòng tương thân, tương ái và hiểu rõ trách nhiệm của bản thân đối với xã hội. Ngày xưa, theo quan niệm của Khổng giáo thì việc giáo dục con người phải lấy đức làm gốc (đức giả bản dã), còn tài là phần ngọn (tài giả mạt dã). Nguyễn Trãi cũng đặt đức lên trên tài: Tài thì kém đức một vài phân. Đại thi hào Nguyễn Du cũng khẳng định: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Quan niệm đúng đắn ấy còn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày nay. Bác Hồ trong một lần nói chuyện với học sinh đã nhấn mạnh: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.

Hiền tài trước hết phải là người có đức. Trong chế độ phong kiến trước đây thì đức chính là lòng trung quân, ái quốc. Mọi suy nghĩ và hành động của các bậc hiền tài đều không ngoài bốn chữ đó. Những mưu cầu, toan tính vun vén cho lợi ích cá nhân không thể tác động và làm ảnh hưởng đến lí tưởng cao quý giúp vua, giúp nước của họ. Xét theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo thì họ xứng đáng là những bậc chính nhân quân tử: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất (giàu sang không làm thay đổi, nghèo khó không thể chuyển lay, bạo lực không thể khuất phục). Hiền tài là những tấm gương quả cảm, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần được triều đình cử đi sứ phương Bắc đã tỏ rõ cho vua quan nhà Minh biết chí khí hiên ngang của người quân tử bằng tài ứng đối hùng biện của mình. Giang Văn Minh sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vua Nam và quốc thể nước Nam, xứng đáng là sứ thần Đại Việt. Không thể kể hết tên tuổi các hiền tài của nước Nam, đúng như Nguyễn Trãi từng viết: Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có (Bình Ngô đại cáo).

Tuy nhiên, lịch sử mấy nghìn năm của đất nước ta có nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, về đại cục, lịch sử luôn phát triển theo hướng đi lên; nhưng có lúc lịch sử gặp giai đoạn suy thoái, bi thương. Vận mệnh dân tộc, số phận đất nước đặt lên vai hiền tài, nhưng vì nhiều lí do, họ đã không đảm đương được trọng trách mà quốc gia giao phó. An Dương Vương oai hùng với thành Cổ Loa kiên cố và nỏ thần hiệu nghiệm, nhưng vì chủ quan khinh địch nên đã lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ vì ham muốn lợi danh mà hèn nhát cam tâm làm tay sai cho quân xâm lược phương Bắc. Đó là lúc nguyên khí suy, thế nước yếu rồi xuống thấp.

Điều quan trọng nhất là hiền tài thì phải thực sự có tài. Có tài kinh bang tế thế thì mới nghĩ ra được những kế sách sáng suốt giúp vua và triều đình cai trị đất nước. Tài năng quân sự lỗi lạc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần ba lần đánh thắng quân xậm lược Mông – Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc của Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò quyết định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.

Một gương sáng hiền tài đã trở thành thần tượng không chỉ trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng chiến đau thương và oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, ông đã làm vẻ vang cho lịch sử và truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến ông, nhân dân ta và bè bạn năm châu yêu mến, tự hào; còn kẻ bại trận cũng phải nghiêng mình kính phục.

Xưa nay, các triều đại phong kiến đều quan tâm đến việc mở trường học và tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài giúp nước.

Sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, mở ra nền thái bình muôn thuở, vua Lê Thái Tổ đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến vấn đề mở rộng và nâng cao nền giáo dục của nước nhà, trong đó có việc phát hiện và đào tạo nhân tài nhằm phục vụ cho mục đích chấn hưng đất nước. Các triều đại trước, việc tuyển chọn người ra làm quan chủ yếu thông qua con đường tiến cử, nhiệm cử…, nhưng đến thời Lê thì chủ yếu là thông qua khoa cử để chọn người tài giỏi giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông viết trong chiếu dụ như sau: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phải chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta, từ khi trải qua binh lửa, nhân tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sáng. Thái Tổ ta mới dựng nước đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chỉ tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Trong sắc dụ của mình, vua Lê Hiển Tông cũng khẳng định: Các bậc thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc đầu tiên.

Người có tài, có đức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay như thế nào?

Nếu hiểu theo nghĩa hiền tài là người tốt, có khả năng đặc biệt làm một việc nào đó thì hiền tài hiện nay trong lĩnh vực nào cũng có. Đó là những người vượt khó để thành đạt; là những doanh nhân có tâm, có tài, sản xuất ra những hàng hoá chất lượng cao đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, đất nước; là những nhà khoa học có nhiều công trình hữu ích, thiết thực; là những vị lãnh đạo có tư tưởng đổi mới, hoạch định các chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy nền kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội ngày càng phát triển. Tất cả hợp lại tạo nên nguyên khí quốc gia.

Hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh mang tính chất truyền thống của gia đình, dòng họ, quê hương… thì người tài phải được phát hiện, giáo dục, đào tạo một cách nghiêm túc và bài bản để thực sự trở thành hiền tài của đất nước.

Nhân tài của một đất nước không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi. Để có được hiền tài, Nhà nước phải có chính sách đảo tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp lí. Tạo điều kiện thuận lợi để hiền tài phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất cho sự nghiệp phát triển đất nước giàu mạnh.

Nhận định của Thân Nhân Trung đúng với mọi quốc gia và mọi thời đại. Học sinh chúng ta cần phải rèn luyện, phấn đấu không ngừng để trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hổ hằng mong ước.
Về Đầu Trang Go down
q_thao255

q_thao255


Tổng số bài gửi : 52
Join date : 06/05/2014

[Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia   [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia EmptyMon Jan 26, 2015 10:38 pm

2.

Trong những năm gần đây, những vấn đề văn hoá giáo dục, vai trò của trí thức được đảng và nhà nước đặt ở vị trí cực kỳ quan trọng. Đảng ta đã nêu lại một câu nói rất nổi tiếng trước đây nhưng hầu như suốt mấy thế kỷ đã bị coi nhẹ. Đó là câu nói của Thân Nhân Trung, trong bài văn bia năm 1484: Hiền tài là nguyên khí quốc gia.

Nơi thờ Ngài tại Yên Ninh, Bắc Giang

Năm 1484 trong thời kỳ cực thịnh của phong kiến Việt Nam, vua Lê Thánh Tông, người đã có công xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, đặc biệt là việc giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Lê Thánh Tông giao Thân Nhân Trung soạn một bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, để nói về khoa thi hội năm 1442, dưới thời Lê Thánh Tông. Từ khi nhà Lê dựng nước, đây là khoa thi đầu tiên được tổ chức với quy mô rộng lớn, với nguyên tắc chặt chẽ, với sự tham gia chấm thi của nhiều bậc hiền tài như : Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Du, Nguyễn Tử Tấn. Khoa thi đã chọn được 33 người trúng cách. Trong số đó có Nguyễn Trực đỗ Tạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ bãng nhãn, Lương Như học đỗ thám hoa. Còn lại là những tiến sĩ, phó bảng trong đó có nhà sử học nổi tiếng là Ngô Sĩ Liên.

Thân Nhân Trung mô tả quang cảnh ngày thi đỗ như sau:

“Ngày 3 tháng 3, yết bảng xướng danh để tỏ rõ cho tất cả kẻ sĩ thấy được sự vẻ vang, ban cho tước trật để biểu dương sự kiện khác thường, áo mão cân đai để trang điểm, thiết yến ở Quỳnh Lâm để tỏ ân huệ, ban cho ngựa tốt về quê để tỏ ý sủng ái. Sĩ thứ đất Trường An tụ tập đến xem đều ca ngợi”.

Theo Thân Nhân Trung trong văn bia năm 1484 và văn bia 1487 thì việc coi trọng khoa thi, qúi trọng hiền tài, được thực hiện từ Lê Thái Tổ. Tuy nhiên đến thời Lê Thánh Tông thì việc này được nhà vua dặc biệt quan tâm và được tổ chức chu đáo nhất. Thân Nhân Trung nhận định rằng:

"Phàm những điều triều trước đã làm thì noi theo mà giữ lấy. Việc mà những triều trước chưa làm đủ thì bổ sung và mở rộng thêm. Sau khi loa truyền yết bảng, lại cho dựng đá đề tên, cốt để lưu truyền mãi mãi. Phép hay ý đẹp đều làm đến nơi đến chốn".

Lê Thánh Tông thấy cần thiết phải dựng thêm bia đá đề tên tiến sĩ. ý tốt đẹp của nhà vua là nêu lên vai trò của hiền tài là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước. Vâng mệnh nhà vua, Thân Nhân Trung thảo bài văn bia năm 1484 và bài văn bia 1487, qua đó ông nêu những điều cơ bản trong chính sách hiền tài của Nhà nước. Chính cách quyết định sự hưng thịnh của quốc gia.

Ông viết:

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng vá đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”.

Thân Nhân Trung nêu lên công lao của các vua đầu nhà Lê như: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. Lê Thái Tổ ngay từ khi quét sạch quân xâm lược xây dựng triều đại mới đã:

“Ban bố thi hành văn đức, lo lắng, mong muốn thâu nạp người tài, đổi mới nền chính trị. Ngài bèn ban chiếu khắp thiên hạ cho xây dựng trường học, đào tạo nhân tài. Bên trong có Quốc Tử Giám, bên ngoài có các phủ học. Ngài thân hành tuyển chọn con cháu các quan, các bậc tuấn tú hào kiệt trong dân cho vào làm học sinh các cục Nhập thị, Cận thị , Ngự tiền, và làm giám sinh Quốc Tử Giám. lại sai quan chuyên trách mở rộng phạm vi tuyển chọn trong dân, lấy con em những nhà lương thiện, bổ sung vào làm việc bồi dưỡng đạo tạo nhân tài thật là rộng rãi vậy”.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, câu nói của Thân Nhân Trung không chỉ dừng lại trong phạm vi xã hội thời Lê. Nó mang một ý nghĩa phổ biến đối với mọi quốc gia qua mọi thời kỳ lịch sử.

Bản thân sự ra đời của quốc gia đã đánh dấu một bước trưởng của một dân tộc ở cả lao động chân tay và lao động trí óc. Nhân dân ta người làm ra lịch sử, nhưng lịch sử tồn tại và phát triển không dừng lại ở đời sống vật chất. Sự tồn vong và thịnh suy của một quốc gia còn phụ thuộc vào đời sống tinh thần nghĩa là vào tài năng trí tuệ và đạo đức của nhân dân. Trong đời sống tinh thần phải kể đến vai trò của trí thức, của những hiền tài, của những nhân vật kiệt xuất. Những người này xuất hiện từ trong sự nghiệp sản xuất và chiến đấu của nhân dân. Họ gắn bó với nhân dân và dẫn dắt nhân dân trên con đường phát triển của quốc gia.

Dân tộc ta sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh thường xuyên bị đe doạ bởi thiên tai và địch hoạ. Dân tộc ta không thể tồn tại và phát triển nếu không có tinh thần yêu nước và khí phách anh hùng của toàn thể nhân dân. Trên nền tảng vật chất và tinh thần ấy, trong lịch sử đã thường xuyên xuất hiện nhiều tài năng lỗi lạc, đem thêm niềm tin và sức mạnh cho nhân dân và cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn và thử thách. Họ chính là những hiền tài của đất nước, họ là nguyên khí của quốc gia, thể hiện tinh hoa của phẩm chất và tâm hồn được chắt lọc và nâng cao từ trong nhân dân. Không có hiền tài thì không có những thành công rực rở của nhân dân. Không có những nền tảng vật chất và tinh thần từ trong nhân dân thì cũng không có hiền tài. Từ trong mối quan hệ giữa nhân dân và hiền tài, nãy sinh sức mạnh trường tồn của dân tộc.

Nguyễn Trãi đã khái quát ý nghĩa trên trong Đại Cáo Bình Ngô:

“Như nước Đại Việt từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Những hào kiệt không bao gìơ thiếu”.

Nước Đại Việt không thể tồn tại và phát triển nếu nhân dân ta không trở thành nhân dân một nước có văn hiến. Nguyễn Trãi không dùng khái niệm văn hoá mà dùng khái niệm văn hiến bởi văn hiến mang một nội dung rộng hơn. Văn hiến chứa đựng hai nhân tố: một là, nền tảng văn hoá của toàn thể nhân dân; hai là, sự xuất hiện của những hiền tài của đất nước.

Với tinh thần nói trên, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi đạt được những thắng lợi huy hoàng bởi ông dựa vào sức mạnh của nền văn hiến Việt Nam, kết hợp được sức mạnh của toàn thể nhân dân với sức mạnh của toàn thể hiền tài.

Về mục tiêu và cách thức đào tạo hiền tài.
Hiền tài là người có cả tài năng và đức hạnh, đem hết tài năng và đức hạnh ấy phục vụ cho Tổ quốc. Nói như ngôn ngữ bây giờ, ngưới ấy vừa có tài lại vừa có đức. Người ấy không những phải học rộng hiểu nhiều, có đủ tài giúp vua trị nước, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân. Người ấy còn phải là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm lo tu dưỡng phẩm hạnh cho bản thân. Theo Thân Nhân Trung, đó là người "lấy trung nghĩa mà rèn cho danh thực hợp nhau, thực hành điều sở học, làm nên sự nghiệp vĩ đại sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thanh danh, mến mộ khí tiết, may ra trên không phụ lòng nhân dưỡng dục của triều đình, dưới không phị công phu học tập thường nhật" (Văn bia 1487).

Làm thế nào để có những bậc hiền tài như thế? Trước hết theo Thân Nhân Trung phải có nột hoàn cảnh khách quan thuận lợi. Ông nói : "Nhân tài phồn thịnh vốn có quan hệ đến khí hoá của trời đất và ở cái gốc giáo hoá của thánh nhân" (Văn bia 1487).

Có khí hoá của trời đất là nói hoàn cảnh thịnh trị của đất nước trong đó mọi sự vật đều phát triển tốt đẹp. Theo Thân Nhân Trung đó là thời đại Lê Thánh Tông. Có sự giáo hoá của thánh nhân là nói sự quan tâm đặc biệt của nhà vua

Đối với việc giáo dưỡng tuyển chọn và đãi ngộ hiền tài.
Lê Thánh Tông tiếp tục sự nghiệp của Lê Thái Tổ và các vua cha anh mình, lấy việc xây dựng nhà học bồi dưỡng nhân tài làm nhiệm vụ hàng đầu. Hơn thế nữa Lê Thánh Tông còn mở rộng quy mô. Đặc biệt ông quý trọng hiền tài và sử dụng hiền tài trong xây dựng nền thịnh trị cho đất nước.

Nhà vua thường xuyên theo sát việc giảng dạy và học tập tại Quốc Tử Giám, chăm lo đến việc ăn ở của từng người. Qua các kỳ thi hội đến thi đình nhà vua đích thân đọc các bài thi và tự mình gặp gở và xem xét từng người, sau đó tự mình chọn lấy những Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và các tiến sĩ. Thân Nhân Trung nói rằng: “Sự lựa chọn ấy là rất thận trọng”.

Để tuyên bố kết quả kỳ thi, nhà vau tổ chức một buổi lễ rất quan trọng. Nhà vua ngự điện Kính Thiên, trăm quan mặc triều phục chúc mừng, treo bảng vàng ở ngoài cửa Đông Hoa, bàn dân thiên hạ chụm đầu ngắm xem đều bảo rằng thánh triều văn minh, nhân tài nườm nượp thật là cuộc gặp ghở chân chính thời thịnh vậy (Bia 1487).

Ngoài việc đãi ngộ đầy đủ vật chất và tịnh thần theo như lệ cũ, nhà vua "còn cho rằng việc lớn lao đẹp đẽ tuy lừng lẫy vang dội một thời nhưng lời khen tiếng thơm chưa đủ để truyền lại vạn đời". Nhà vua truyền lệnh dựng bia đá khắc tên những người thi đổ và đặt ở Quốc Tử Giám. Mục đích của việc này là khiến cho mọi kẻ sĩ trong nước thấy mình được hâm mộ, như thế mà thêm phấn khởi, cố gắng rèn luyện danh tiết, cố gắng phục vụ Hoàng gia.

Thân Nhân Trung phân tích kỹ hơn việc khắc tên trên bia đá này. Trước hết kẻ sĩ chốn trường ốc, lều tranh, số phận nhỏ bé mà được triều đình đề cao như vậy thì cái chí của họ và lòng tự trọng khiến họ phải hết lòng báo đáp. Trong số những kẻ sĩ ấy cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng và sa ngã vào cùng loại với bọn gian ác, là bởi lúc họ sống chưa được nhìn thấy tấm bia đá trinh bạch này thôi! Giả sử hồi đó họ kịp nhìn thấy thì ắc hẳn lòng thiện sẽ tràn đầy, ý ác được ngăn chặn, đâu dám lạm chuyện càn bậy. thế thì việc dựng tấm bia đá này, ích lợi biết chừng nào. Kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà cố gắng. Làm sáng tỏ những điều đã qua, mở rộng dạy bảo cho hậu thế: một là để dài mãi tư chất danh tiết cho kẻ sĩ; hai là cũng cố sự bền vững của quốc gia.

Với hai văn bia ngắn gọn, Thân Nhân Trung đã để lại cho đời sau những ý kiến vô cùng sâu sắc về vai trò của người trí thức, về chính sách đối với hiền tài, nhắc nhở đời sau một chân lý lịch sử: “Kẻ sĩ có quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước” (Bia 1484).

Hai tấm bia nói trên vẫn tồn tại ở Văn Miếu trên 500 năm nay, thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với kẻ sĩ, và đã luôn luôn chứng minh lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước gắn liền với sự thịnh suy của hiền tài.

Với tinh thần nói trên, Thân Nhâ Trung và các bậc hiền tài đồng thời với ông đã góp hết sức mịnh trong việc xây dựng một thời đại hưng thịnh với vua thánh tôi hiền.
Là nhà văn hoà lớn ông đã là Tao Đàn Phó đô nguyên suý cùng với Lê Thánh Tông cổ vũ cho nền văn háo nước nhà. Là một người giữ trọng trách trong triều đình ông đã nêu một tấm gương tài cao đức trọng khiến cho kẻ sĩ đời đời mến mộ.

Ông qua đời được 300 năm thì vào năm Cảnh Hưng thứ 37, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Nhậm, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn,Võ Huy Tấn, một lần có việc đi qua làng Yên Ninh, gặp trời mưa to phải ngũ lại, bèn hỏi thăm đến con cháu họ Thân thì tìm được một cụ già. Hỏi, cụ trả lời rằng, cụ có ông tổ xa đời là Thân Nhân Trung làm quan Tao Đàn Phó nguyên suý. Hỏi đến phả hệ, hành trạng, cụ đều không biết đến. Các ông tỏ ý muốn đến thăm đền thờ và phần mộ Thân Nhân Trung để thắp nhan, nhưng đền thờ đã không còn, phần mộ cũng không biết ở chỗ nào nữa (theo Lâm Giang).

Chúng ta không khỏi cảm xúc đọc lại những lời thơ đầy lòng ưu ái đối với Thân Nhân Trung, bậc hiền tài xuất sắc của đất nước đã bị lãng quên, trong giai đoạn lịch sử mà cả quốc gia và nguyên khí quốc gia đang có chiều suy thoái.

Ngày hôm nay, đất nước đang tiến mạnh trong hoàn cảnh mới của dân tộc và thời đại. Giáo dục đang trở thành quốc sách - hàng đầu. Văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp chung của đất nước. Ngày nay kỷ niệm Thân Nhân Trung, nhân dân ta đưa ông trở lại vị trí quang vinh của ông trong lịch sử văn hiến của dân tộc. Cuộc đời ông, sự nghiệp của ông và đặc biệt là tư tưởng của ông về vinh dự và vai trò của người trí thức sẽ mãi mãi là bài học quý giá và nguồn cổ vũ lớn cho chúng ta hôm nay.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





[Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia   [Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Empty

Về Đầu Trang Go down
 
[Văn/10] Trình bày ý kiến về câu nói Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» [Văn/10] Phân tích tác phẩm ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia''
» [Văn/11] Phân tích quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo
» [Văn/10] Phân tích tác phẩm Bình ngô đại cáo - Nguyễn Trãi
» [Văn/10] Đoạn 3 - Trao duyên - Truyện Kiều - Nguyễn Du
» [Văn/11] Phân tích quá trình thức tỉnh hồi sinh của Chí Phèo

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Quách Như Thảo :: Góc học tập :: Ngữ văn-
Chuyển đến